Phạm Tiến Duật- đèn “tắt”
- Sách
- 2020-12-27
Hà Linh
– Luật sư Cù Huy Hà Vũ là con trai của nhà thơ Huy Cận, là người thân thiết với Phạm Tiến Duật trong thời gian ông nghỉ bệnh, ông cho biết: “Mấy ngày trước khi qua đời nhà thơ rơi vào trạng thái lơ mơ, khó thở và hạ nhiệt độ. -Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi vào tháng 7 năm 2007. Trong thời gian nằm viện, người thân và đồng nghiệp đã hoàn thành phần đầu của tuyển tập Phạm Tiến Duật để nhà thơ làm nhân chứng trước khi về với cát bụi. Cuốn sách được phát hành vào ngày 17 tháng 11, và bạn bè đã mang sách đến tận giường bệnh và đọc những bài thơ của ông.
Chiều ngày 18 tháng 11, Thạch Nhơn, con gái bà Nạch – bài thơ nổi tiếng. Nguyên mẫu của Tôn Cô – người chị xung phong được đưa ra Hà Nội gặp nhà thơ lần cuối, lần gặp mặt này nhà thơ không nhắc một lời, chỉ biết mở to mắt và nắm chặt tay để trả ơn người cựu thanh niên xung phong. Con gái của tác giả.
Ngoài tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp, cuối đời Phạm Tiến Duật còn nhận được một món quà là cô đạt giải nhì vì đã có cống hiến xuất sắc cho nền thơ ca dân tộc Phạm Tiến Duật số 1 Một phần của tuyển tập (thơ và ca khúc học đường) cũng đã đoạt Giải thưởng Văn học năm 2007.
Phạm Tiến Duật sinh ra tại Thanh Ba, Phú Thọ, gia đình vào ngày 14 tháng 1 năm 1941. Một người cha và Cô giáo Nông trường Mẹ Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, ông nhập ngũ và chiến đấu hơn chục năm trên con đường Trường Sơn ác liệt, sau khi hòa bình lập lại, nhà thơ về công tác trong Ban Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam trước khi lâm bệnh nặng. , Ông là Phó Giám đốc Ban Đối ngoại của Hội Nhà văn.
Những năm tháng chiến tranh đã để lại dấu ấn sâu đậm trong những bài thơ của Fan Tiandu. Với những bài thơ nổi tiếng như Nho, Tiểu đội xe không người lái, Ngọn đèn lửa, Em gái thanh niên xung phong…, Phạm Tiến Duật được coi là “ánh sáng” của một thế hệ nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ, thơ ông chất phác, hài hước, lạc quan và khám phá thú vị khắp mọi nơi. Một người lính. Các bài thơ chính của Phạm Tiến Duật bao gồm: “Vầng lửa” (1970); Hành trình thơ (1971), Nơi cuối núi (1981), Đội lửa (1996), Tiếng bom và tiếng chuông (Trường ca, 1997), Fan Tiandu (2007) …— Bị thương nặng, Hằng nằm ngửa chờ tiếng chuông xe, tưởng trăng nằm nghiêng, tưởng đứng thẳng lưng ngồi mà nhớ. Cái cổ gáy. — Treo võng giữa rừng Trường Sơn hai đứa hai đầu Đường ra trận mùa này lắm Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây Có hai Núi non muôn màu nắng mưa, khí trời cũng khác, giống như anh và em, phía nam là Nhữ Đông, phía tây là rừng đai liên hoàn. Trường Sơn Tây ơi, anh ơi. Ở đây mưa nhiều. Muỗi vằn vện Râu dài bay lượn trong rừng. Đấy, anh bắn măng ơi …—— ô tô có kính Bài thơ trên dòng (trích dẫn)
không có kính, không phải vì xe không có kính, bom rung kính vỡ, bạn nhìn thấy những vì sao, chợt thấy cánh chim như thích, lao vào buồng lái
không Kính, bụi