Sự thất bại của quân đội Ottoman đã thay đổi lịch sử châu Âu

Bức tranh này thể hiện cuộc đổ bộ của quân đội Ottoman trên đảo Malta. Ảnh: Lược sử chiến tranh Năm 1565, Đế chế Ottoman mở chiến dịch tấn công Malta, một hòn đảo thưa thớt dân cư ở Địa Trung Hải, với mục đích tạo bàn đạp cho cuộc xâm lược châu Âu. Tuy nhiên, kế hoạch này đã thất bại vì sự kháng cự của các Hiệp sĩ Đỏ mắc kẹt trên đảo trong trận chiến này, được coi là một trong những sự kiện mang tính bước ngoặt làm thay đổi lịch sử châu Âu. -Vào thời điểm đó, Đế chế Ottoman dưới sự cai trị của Suleiman Đại đế dường như bất khả chiến bại về phương diện mở rộng lãnh thổ. Sau khi chiếm đóng Ai Cập vào năm 1517, họ đã kiểm soát toàn bộ phía đông Địa Trung Hải. Một năm sau, họ chiếm Algeria, nơi rất thuận lợi cho việc mở các cuộc tấn công vào Ý và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Suleiman Đại đế nhận ra rằng quân đội của ông vẫn chưa phải là đối thủ trên biển của các nước châu Âu. Châu Âu và bắt đầu xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh. Sau khi chứng tỏ sức mạnh của mình trong trận hải chiến với Liên đoàn Cơ đốc do Tây Ban Nha lãnh đạo ngoài khơi bờ biển Tunisia, Suleiman Đại đế quyết định tấn công Malta.

Vì mạng lưới gián điệp ở Istanbul, Jean Parisot của Valletta, đội trưởng phong trào Hiệp sĩ Cứu tinh, đã lên kế hoạch cho cuộc tấn công và bắt đầu tổ chức phòng thủ ở châu Âu, xây dựng pháo đài và triệu tập quân đội. Tổng cộng, 6.100 binh sĩ đã được huấn luyện và 9.000 người khác nhập ngũ ở đó. Đối đầu với họ là 40.000 binh lính đến từ Đế chế Ottoman, trong đó khoảng 9.000 kỵ binh, và 6.000 cấm binh tinh nhuệ của người Janissary. Cắt hết nước uống và thức ăn của đối thủ. Ông ra lệnh thu hoạch tất cả các loại cây lương thực ngay cả khi chúng chưa trưởng thành, đồng thời đầu độc các giếng xung quanh pháo đài.

Vào ngày 18 tháng 5 năm 1565, thiết giáp hạm của Đế chế Ottoman đã tiếp quản không xa hòn đảo. Malta nhưng do mệnh lệnh bộ binh không đổ bộ lên bờ, thủy quân không thống nhất được địa điểm đổ bộ. Một ngày sau, họ quyết định bắt đầu tấn công vị trí gần Pháo đài San Elmo, một trong ba công trình quan trọng bảo vệ hòn đảo. Người Ottoman đã dùng súng ném bom Pháo đài St. Elmo trên biển. Tuy nhiên, trên đất liền, thủ lĩnh Đội Hiệp sĩ cứu rỗi đã phán đoán chính xác rằng kẻ thù sẽ tấn công căn cứ trước nên đã tập trung pháo binh tại đây và phản công quyết liệt. Pháo đài biến thành đống đổ nát, và các hiệp sĩ chỉ có thể sơ tán những người bị thương và củng cố pháo đài vào ban đêm. Sau một tuần tấn công trực diện, các vệ sĩ của Yanisari đã cấm một phần pháo đài, nhưng cuộc giao tranh kéo dài gần ba tuần.

Quân đội Ottoman thực hiện một cuộc tấn công đổ bộ. Ảnh: Lịch sử chiến tranh .—— Dragut, chỉ huy tối cao của Đế chế Ottoman, cảm thấy mệt mỏi với tốc độ của quân đội và ra lệnh hạ nòng súng khi pháo đài bị ném bom. Tuy nhiên, quyết định này đã khiến một viên đạn găm vào pháo đài trước mặt, một mảnh đạn rơi xuống giết chết anh ta.

Sau nhiều tuần giao tranh, quân Ottoman bị tổn thất nặng nề, mất một nửa quân số. Những người lính Vệ binh Tinh nhuệ, nhưng cuối cùng đã tiến vào pháo đài và giết tất cả những người lính bên trong.

Theo thông tin tình báo của những người lính Ottoman đang chạy trốn, Hiệp sĩ Cứu thế biết rằng kẻ thù sắp phát động một cuộc tấn công toàn diện vào Sangria, bán đảo, nơi tọa lạc của Học giả Saint Michael. Cuộc tấn công được thực hiện trên biển và trên bộ.

Quân phòng thủ của pháo đài này đã đặt một số khẩu pháo gần mực nước biển để yểm trợ cho quân lính. Đế chế Ottoman đã không nhận ra điều này cho đến khi họ đến quá gần và bị dội một loạt đại bác dữ dội. Sau khi Hiệp sĩ cứu rỗi nhận được quân tiếp viện, các cuộc tấn công trên bộ cũng bị chặn lại. Đế chế Ottoman bị thương vong hơn 1.000 người, trong khi các Hiệp sĩ Cứu thế bị thương vong rất ít.

Vào ngày 7 tháng 8 năm 1565, Đế chế Ottoman tấn công thành phố Birgu trong một cuộc bao vây và ném bom ác liệt. rất nhiều. Khi các Hiệp sĩ cứu rỗi sắp mất pháo đài của họ, Đế chế Ottoman đột ngột rút lui.

Nguyên nhân là do một chỉ huy kỵ binh Cơ đốc giáo đã phát động một cuộc tấn công nhằm vào hậu tuyến phòng thủ của Đế chế Ottoman, khiến các chỉ huy của Đế chế Ottoman tức giận rằng đây là quân tiếp viện của các Hiệp sĩ Cứu thế. Trên thực tế, quân Cơ đốc đã trải qua một tháng.

Đế chế Ottoman cuối cùng đã quyết định tấn công Lâu đài Thánh Michael và Thành phố Mdina, nhưng do quá mạnh nên cuộc tấn công vào pháo đài này đã thất bại.Người phòng thủ sử dụng nhiều loại vũ khí khác nhau để phá hủy tháp của đối thủ.

Cuộc tấn công trước đó vào Mdina là hy vọng cuối cùng để Đế chế Ottoman thay đổi. Thành phố hầu như không được bảo vệ, và những người bảo vệ hoảng sợ khi chứng kiến ​​cuộc tấn công của quân Ottoman. Ngay từ khi kẻ thù rời khỏi mục tiêu, chúng không biết khả năng của vũ khí và đại bác của chúng bắn ra.

Tuy nhiên, điều này đã thuyết phục Đế quốc Ottoman rằng quân của Mdina có nhiều đạn dược đến mức có thể không bắn được về độ chính xác. Họ dừng cuộc tấn công và rút lui.

Quân đội của Don Garcia đã đánh đuổi Đế chế Ottoman. Ảnh: Lịch sử chiến tranh.

Vào đêm ngày 7 tháng 9 năm 1565, sự tiếp viện của 8.000 hiệp sĩ Quân đội Cứu thế đã đến dưới sự lãnh đạo của Tướng Tây Ban Nha Don Garcia. Sự xuất hiện của lực lượng hỗ trợ này đã gây bất ngờ cho Đế chế Ottoman. Binh lính và một phần ba dân số trên đảo thiệt mạng. Quân trú phòng sống sót sau vô số cuộc tấn công và pháo kích, và tổng cộng 130.000 quả đạn pháo sống sót.

Một số nhà sử học nói rằng trận chiến này đã ngăn cản họ chinh phục châu Âu và đưa Hồi giáo vào Đế chế Ottoman, lục địa thay thế Cơ đốc giáo. Nữ hoàng Elizabeth I nói: “Nếu Đế quốc Ottoman thắng trận ở Malta, thì tất cả những người theo đạo Thiên chúa ở châu Âu sẽ gặp nguy hiểm.” Sau trận chiến này, vương quốc Thiên chúa giáo và các Hiệp sĩ quyết định dẹp bỏ xung đột và thành lập Liên đoàn Jihadist. Lực lượng này đã giành được một chiến thắng quyết định trước Đế chế Ottoman trong trận Lepanto năm 1571.

Duy Sơn (theo lịch sử chiến tranh)

    Leave Your Comment Here