Lý do Mỹ mua tên lửa chống hạm từ Nga

Trong những năm 1990, Hải quân Mỹ đã thực hiện một loạt dự án phát triển các mục tiêu bay tốc độ cao và các chức năng tương tự như tên lửa chống hạm của Nga nhằm tìm cách đối phó và huấn luyện binh sĩ trong điều kiện thực tế. có thể. Tuy nhiên, hết dự án này đến dự án khác đều thất bại, khiến Lầu Năm Góc phải ra lệnh đặt mục tiêu bay MA-31 do Nga phát triển từ nền tảng tên lửa siêu thanh chiến thuật Kh-31. Được phát triển bởi Viện thiết kế Zvezda-Strela của Liên Xô vào cuối những năm 1970, mục đích là để phóng tên lửa diệt radar có khả năng xử lý các loại vũ khí hiện đại của Mỹ như hệ thống và phòng không Patriot. Aegis. Tên lửa Kh-31 được trưng bày bên cạnh máy bay chiến đấu Su-30KN năm 1991. Ảnh: Ausairpower .

Nguyên mẫu Kh-31 đầu tiên được ra mắt vào năm 1982 và được đưa vào trang bị trong vòng chưa đầy 6 năm phục vụ. Phiên bản đầy đủ đầu tiên mang tên của tàu khu trục radar thụ động Kh-31P, sau đó là biến thể chống hạm với đầu dò radar chủ động được gọi là Kh-31A.

Cả hai phiên bản đều được ra mắt công chúng ngay trước khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991. Sau đó, Nga tiếp tục cải tiến và cho ra đời mẫu Kh-31 mới để sử dụng trong nước và xuất khẩu, được trang bị trên nhiều mẫu máy bay chiến đấu như Su-27SM, Su-30, Su-35S và MiG-29M. Và MiG-35.

Tất cả các biến thể của Kh-31 đều sử dụng giai đoạn lực đẩy chính để đạt được tốc độ quá mức, sau đó kích hoạt máy bay phản lực để duy trì tốc độ siêu âm mọi lúc. Khi bay .—— Kh-31P bay ở độ cao lớn để bám theo tín hiệu radar của đối phương, giúp nó đạt tốc độ vượt 4.300 km / h và tầm hoạt động 110 km, trong khi Kh-31A bay gần mực nước biển với tốc độ tối đa 3.300 km / h Km / h, với phạm vi 100 km. Phiên bản hiện đại hóa có thể bắn trúng mục tiêu ở cự ly 160-250 km.

Loạt Kh-31 được coi là một trong những vũ khí chiến thuật nguy hiểm nhất đối với pháo Patriot và tàu chiến Mỹ. , Buộc Washington phải tìm câu trả lời.

Cuối những năm 1970, Hải quân Hoa Kỳ khởi động dự án “Vật kính siêu âm độ cao nhỏ” (SLAT) sau khi thất bại và phải hủy bỏ ZBGM- để kiểm tra khả năng chiến đấu của “Aegis”. Quy trình 90A và ZBQM-111A. Vấn đề nan giải là phải chuyển đổi tên lửa phòng không RIM-8 Talos thành mục tiêu phòng không MQM-8G Vandal, nhưng chúng còn lâu mới đạt được hiệu suất cần thiết và không thể mô phỏng mối đe dọa từ tên lửa chống hạm giữa các cá nhân. . Công ty cổ phần Bucket-Martin Marietta (Martin Marietta Corporation) được thuê để phát triển SLAT vào năm 1984 và sử dụng máy bay phản lực để sản xuất nguyên mẫu YAQM-127A. Tuy nhiên, quá trình thử nghiệm gặp phải hàng loạt vấn đề và chỉ một trong sáu lần bắn thử nghiệm trong giai đoạn 1987-1989 là thành công. Cả hai cuộc thanh tra vào tháng 11 năm 1990 và tháng 5 năm 1991 đều kết thúc thất bại, khiến Quốc hội Mỹ ra lệnh hủy bỏ kế hoạch.

Sự tan rã của Liên Xô tạo ra cơ hội hiếm có cho Hoa Kỳ, vì Lầu Năm Góc có thể mua tất cả các mẫu và vũ khí từ Nga, Ukraine và Cộng đồng các quốc gia độc lập (CNG).

Các kỹ thuật viên Mỹ đã lắp đặt mục tiêu bay MA-31 trên F-4. Ảnh: Lái xe Năm 1995, Macdonald Douglas được Hải quân Hoa Kỳ ủy nhiệm mua và sửa đổi tên lửa chống hạm Kh-31A để so sánh nó với các yêu cầu của dự án. Tốc độ siêu âm trên biển (SSST). Nhóm đã làm việc với Zvezda-Strela để phát triển mục tiêu xác định MA-31.

Macdonald Douglas đã mua thân tàu và động cơ của tên lửa Kh-31, đồng thời tháo ngòi nổ và hệ thống dẫn đường. Bắn, sau đó lắp đặt thiết bị để biến nó thành mục tiêu bay. Phiên bản đầy đủ của MA-31 được trang bị Hệ thống lái tự động điều khiển từ xa (URAP), bộ tạo tín hiệu, thiết bị bay tham số và thiết bị hủy mũi. Tên lửa diệt hạm MA-31 có tính năng kỹ chiến thuật tương tự như tên lửa Kh-31 trong biên chế Nga, có thể bay theo quỹ đạo chống hạm hoặc chống radar theo yêu cầu. Chúng có thể thực hiện các thao tác cơ động phức tạp trong khi vẫn duy trì tốc độ siêu âm ở mực nước biển.

Boeing hợp nhất với McDonald Douglas vào năm 1997 và duy trì chương trình MA-31. Mục tiêu này đã đánh bại “Rắn biển” do Mỹ phát triển năm 1999, hãng đã giành được hợp đồng với Boeing, hãng sản xuất 34 quả đạn MA-31. Từ năm 1996 đến 2003, nhóm đã bắn 13 viên đạn MA-31 từ các máy bay chiến đấu F-4 Phantom II. Ba trong số đó gặp sự cố do hệ thống điện hoặc URAP.

Tuy nhiên, thời kỳ MA-31 không kéo dài. Hải quân Mỹ hy vọng sẽ có mục tiêu siêu thanh với tầm bắn và độ chính xác cao hơn MA-31. Họ yêu cầu Orbital Sciences chế tạo một nguyên mẫu Coyote GQM-163A.

Nguyên mẫu đầu tiên của Coyote được đưa vào sử dụng vào năm 2004. Cùng thời điểm Boeing ra mắt MA-31PG, hệ thống này đã thay thế hệ thống URAP. Sổ cáiQuỹ đạo của vệ tinh tương tự như bom JDAM. Boeing cũng đang phát triển một bộ đồ cho phép tiêm kích đa năng F-16 sử dụng loại đạn MA-31, qua đó cải thiện khả năng mô phỏng các mối đe dọa và mở rộng thị trường.

F-16 mang theo mục tiêu bay MA-trong cuộc thử nghiệm năm 2005, 31 máy bay đã ở dưới cánh. Ảnh: Drive .

Khi Tổng thống Nga Vladimir Putin áp đặt các hạn chế đối với xuất khẩu vũ khí vào năm 2001, khiến Boeing giao thiết bị muộn, nỗ lực này đã thất bại. Tổng thống Bush đã rút khỏi Hoa Kỳ khỏi Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo vào cuối năm nay, điều này càng làm nguội lạnh mối quan hệ giữa Moscow và Washington. Đến năm 2005, Boeing chỉ sản xuất 18 trong số 34 tháp hợp đồng MA-31.

Sự thành công của dự án GQM-163A đã kết thúc loạt MA-31. Hải quân Mỹ đã cạn kiệt mục tiêu bay MA-31 đầu hàng và kết thúc dự án vào năm 2007.

“Quan hệ song phương xấu đi khiến Mỹ khó có thể mua thêm vũ khí Nga trong tương lai. Tuy nhiên, dự án MA-31 vẫn cho thấy, chuyên gia quân sự Tyler Rogoway nhận xét đây là một giai đoạn lịch sử thú vị. , Hải quân Hoa Kỳ cố gắng xây dựng một mục tiêu để mô phỏng vũ khí của các đối thủ tiềm năng và cuối cùng là tìm ra nguồn của chính nó.

    Leave Your Comment Here