Gần 1.000 người Do Thái đã bị sát hại trước mặt 5.000 binh sĩ La Mã ở 70 quốc gia

Những tàn tích của pháo đài Masada ngày nay. Ảnh: Wikipedia .

Vào thế kỷ thứ nhất, Đế quốc La Mã cai trị Địa Trung Hải và chinh phục các khu vực rộng lớn ở Trung Đông, bao gồm Vương quốc Hasmonia ở Israel. Tuy nhiên, sự cai trị tàn khốc của Đế quốc La Mã đã buộc người Do Thái tiếp tục đấu tranh cho cuộc đấu tranh vũ trang. Sự kiện đáng nhớ nhất là theo lịch sử của cuộc chiến, gần 1.000 người Do Thái đã chết trong pháo đài Masada vào những năm 1970.

Trong 66 năm, ngày nay người Do Thái ở tỉnh Do Thái phía bắc Israel bắt đầu nổi dậy chống lại Đế quốc La Mã. Ban đầu, cuộc nổi dậy thành công đã biến Jerusalem thành một nền tảng vững chắc. Tuy nhiên, Jerusalem đã sụp đổ sau cuộc bao vây những năm 1970 và các cuộc đột kích ở Rome, buộc phiến quân phải rút về đội phòng thủ của pháo đài Masada.

Masada là pháo đài và cung điện do Herod là Vua của Herod (Nhà nước Do Thái) lãnh đạo. Nó được thiết kế như một nơi ẩn náu cho nhà vua trong thời kỳ khủng hoảng.

Fort Masada được coi là một kiệt tác kiến ​​trúc, và nó là một thách thức khó khăn cho tất cả kẻ thù. Cấu trúc này nằm trên đỉnh núi, được bao quanh bởi các sườn dốc và cách duy nhất để vào đó là một con đường quanh co ở phía Sơn Đông. Đó là một hành trình dài và khó khăn, buộc các lực lượng tấn công thành các nhóm nhỏ, khiến chúng dễ bị tấn công bởi các hậu vệ không quân từ trên cao.

Thông thường, khi không thể tấn công thành trì của kẻ thù, mọi người sẽ bao vây nó trong một thời gian dài và cắt đứt nguồn cung của lực lượng phòng thủ đói. Tuy nhiên, Masada là nơi lý tưởng để đối mặt với bất kỳ mối đe dọa nào. Có một hầm ở dưới chân núi, được sử dụng để thu thập nước mưa và kho chứa đầy thực phẩm, và thậm chí còn có chỗ để tăng sản xuất thực phẩm tươi sống.

Khu vực lắp ráp quân sự Lomama trước trụ sở. Ảnh: Wikipedia.

Khi quân đội La Mã đến, có khoảng 960 người Do Thái trong pháo đài, chủ yếu là trẻ em, phụ nữ và người già. Thủ lĩnh của nhóm là Eleazer Ben Yair, một chiến binh gia đình có truyền thống chống lại Đế chế La Mã.

Rome đã huy động Quân đoàn đau khổ thứ 10 và Lực lượng hỗ trợ, một lực lượng gồm hơn 5.000 binh sĩ, gấp 5 lần số người ở Fort Masada. Chỉ huy bao vây là thống đốc của Judah, Flavius ​​Silva. Quân đội La Mã đã xây dựng một con dốc tròn gần pháo đài Masada để ngăn chặn kẻ thù trốn thoát để tìm kiếm quân tiếp viện hoặc phản công. Pháo đài được xây dựng bằng đá và sử dụng địa hình hiện có, đủ rộng để tuần tra và bảo vệ, và được trang bị nhiều đài quan sát để theo dõi mọi chuyển động của Masada. Trong lâu đài, một khi kẻ thù được tìm thấy, cũng có một máy phóng để tấn công.

Các lực lượng phòng thủ của Rome cũng có nơi để tấn công. Khu vực này cách Fort Massada 280 m. Nó cho phép các đơn vị bộ binh tiếp cận pháo đài mà không bị ràng buộc bởi Lực lượng Phòng vệ Quốc gia. Nó cũng có thể giúp các binh sĩ tìm nơi lắp đặt máy phóng gần tuyến phòng thủ. Israel — Sử dụng những viên đá có sẵn, quân đội La Mã đã xây dựng một vùng đất dài và đá vụn giữa hội đồng cằn cỗi và đỉnh núi. Ở phía sau của đội, họ đã xây dựng một tòa tháp pháo đài để đối mặt với cổng của pháo đài Masada.

Chiến lược này ngăn chặn các lực lượng quốc phòng thực hiện bất kỳ giao dịch nào trong pháo đài. Quân đội La Mã chắc chắn sẽ chiến thắng nhanh chóng, và những người bên trong Masada phải đầu hàng vũ khí để đầu hàng.

Nhưng, trước khi quân đội La Mã tấn công, người Do Thái đã giết cả gia đình anh ta và tự sát. Họ dường như nhận ra kết quả tất yếu của cuộc tấn công và quyết định không đầu hàng kẻ thù. Khi người La Mã vào pháo đài, họ chỉ tìm thấy hàng trăm thi thể.

Sự sụp đổ của pháo đài Masada đã chấm dứt cuộc nổi loạn của người Do Thái, nhưng câu chuyện khó khăn đã trở thành nguồn cảm hứng cho con cháu của người Do Thái. – Đoạn đường nối vào pháo đài được xây dựng bởi những người lính La Mã. Hình: Wikipedia .

Duy Sơn

    Leave Your Comment Here