“Những người lính bất tử” trong hai cuộc chiến tranh thế giới

Mù và cắt cụt là những chấn thương khiến binh sĩ mất khả năng chiến đấu. Tuy nhiên, điều này sẽ không dập tắt được ý chí của sĩ quan quân đội Anh, Adrian Caton de Wyatt. Trong gần 60 năm chiến đấu, anh ta đã phải chịu tổng cộng 11 vết thương nghiêm trọng từ đầu đến chân và sống sót sau một loạt vụ tai nạn máy bay. Anh ta được coi là người lính bất tử của người Anh, người Anh. Con trai của một gia đình quý tộc Bỉ tại Brussels vào ngày 5 tháng 5 năm 1880. Mẹ anh qua đời khi Wiart chỉ mới 6 tuổi. Người cha kết hôn với người vợ mới cưới và gửi anh đến trường nội trú ở Anh. Vào ngày 11 tháng 10 năm 1899, Chiến tranh Boer lần thứ hai đã nổ ra căng thẳng giữa Hà Lan và Anh ở Nam Phi. Wiat phải sử dụng tên giả, tuyên bố sai để đến tuổi và rời khỏi trường để gia nhập quân đội Anh. Sau khi bụng và háng bị thương, anh được đưa trở lại Anh.

“Khi cuộc xung đột nổ ra, tôi nhận ra rằng trận chiến đã nuốt máu tôi. Nếu tôi không rời bỏ tôi, tôi sẽ không chiến đấu và tôi sẽ tham gia cùng bạn ở đó.” Hãy nhớ Wiart. Sau đó, ông gia nhập Quân đoàn kỵ binh hạng nhẹ và trở về Nam Phi để chiến đấu cho đến khi kết thúc chiến tranh năm 1902. Ông trở thành công dân Anh và kết hôn năm 1907.

Wiart, một người đàn ông Anh mặc đồng phục năm 1901. Ảnh: Wikimedia Commons.

Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Wiart đã gia nhập quân đội vào năm 1914. Trận chiến đầu tiên của ông là quét sạch cuộc nổi loạn ở khu bảo tồn Somaliland của Anh (nay là Đông Somalia). Wiart bị đánh hai lần vào mặt, khiến mắt trái của anh bị mù và một phần tai trái bị mất. Thành công của chiến dịch và sự can đảm để chiến đấu đã mang về cho Wiart một huy chương chiến thắng.

Đầu năm 1915, Wiart gia nhập Mặt trận phía Tây. Tay trái của anh ta bị nghiền nát bởi mảnh đạn trong trận chiến. Bác sĩ nghĩ rằng bàn tay vẫn đang lành, nhưng Wiart không thể chờ đợi. Trước khi bác sĩ bỏ tay ra, anh cắn hai ngón tay với nỗi đau vô cùng.

Những thương tích này không thể ngăn Wiart tham gia Trận chiến Somme năm 1916. Khi chỉ huy 8. Gloucestershinre trong ba tiểu đoàn chết trong một cuộc tấn công vào làng La Boisselle của Pháp, ông đã ra lệnh cho ba đơn vị đẩy lùi cuộc tấn công của kẻ thù.

Để đạt được thành tích này, Wiart đã nhận được Huân chương Victoria với danh hiệu cao quý nhất của quân đội Anh. Tuy nhiên, ông luôn khiêm tốn và không đề cập đến điều này trong hồi ký của mình, chỉ có điều đó là một kỳ tích của toàn Tiểu đoàn 8. Viên đạn bắn vào sau gáy và mắt cá chân. Trong trận chiến 1917-1918, anh ta tiếp tục bị bắn vào hông và chân, nhưng vẫn sống sót. Anh ấy nói: “Thành thật mà nói, tôi yêu chiến tranh.” Adrian Carton của Wiat hy vọng sẽ tìm thấy bất kỳ xung đột nào. Ông từng là phó chỉ huy của Quân đội Anh hỗ trợ Ba Lan, Ukraine, Litva và Cộng hòa Séc từ năm 1919 đến 1921 và sống sót sau hai vụ tai nạn máy bay. Wiart đã nghỉ hưu từ cấp bậc thiếu tướng năm 1923 và chuyển đến Ba Lan.

Wiart được đặt tại trụ sở của quân Đồng minh trong Thế chiến thứ hai. Ảnh: Wikimedia Commons .

Trong vài tháng đầu Thế chiến II, Ba Lan đã bị phá hủy bởi các cuộc tấn công của Đức Quốc xã. Wiat phải trở về Anh và gia nhập quân đội, và được thăng cấp trung tướng năm 1939. Do cuộc tấn công của Đức, cánh khẩn cấp của Little Bay. Wiat từ chối sơ tán bằng một chiếc thuyền bơm hơi, nói rằng anh ta có thể dễ dàng trở thành mục tiêu tấn công. Trong đống đổ nát, anh chờ đợi máy bay chiến đấu rút khỏi đạn. Một tàu hải quân Đồng minh sau đó đã được giải cứu và hạ cánh.

Quân Witt ở Na Uy bị áp đảo bởi pháo binh và nguồn cung không đủ. Tuy nhiên, bất chấp những cuộc phục kích liên tục của Đức, sự lãnh đạo độc đáo của ông đã giúp quân đội vượt qua nhiều ngọn núi và di chuyển đến nơi an toàn. Hải quân Na Uy đã giúp họ trốn thoát an toàn, và Wiart trở về Vương quốc Anh trong sinh nhật lần thứ 60 của mình.

Vào tháng 4 năm 1941, ông được gửi đến Nam Tư để thực hiện sứ mệnh của mình. Máy bay ném bom Wellington của anh bất ngờ hạ cánh trong chuyến đi và rơi xuống biển Địa Trung Hải. Wiat và phi hành đoàn ngồi trên cánh cho đến khi cánh chìm hoàn toàn. Họ phải bơi gần hai km ngoài khơi và Wiart cũng giúp đồng đội của anh bị thương trong quá trình này.

Phi hành đoàn người Anh bị quân đội Ý phát hiện và bắt giữ trong lúc “hạ cánh”. Wiat được đưa đến lâu đài Vincigliata, nơi ông cũng bị giam giữ cùng với 12 quan chức cấp cao khác. Wiart đã cố gắng nhiều lần để thoát khỏi nhà tù, nhưng đã thành công một lần, nhưng sớm bị bắt lại. Ông được thả ra vào tháng 8 năm 1943, khi Ý đổi ông thành nhà tùLính đồng minh.

Wiart nghỉ hưu năm 1947, xuất bản một cuốn hồi ký và sống một cuộc đời bình lặng cho đến khi ông qua đời năm 1963, ở tuổi 83.

    Leave Your Comment Here