Máy bay ném bom của Đức Quốc xã gieo ác mộng cho những người vận chuyển hàng hóa của quân Đồng minh
- Quân sự
- 2020-07-27
Một chiếc Fw 200 sắp cất cánh. Ảnh: Wikipedia. – Trong Thế chiến II, máy bay ném bom Fw 200 Condor là đầu đốt đầu tiên của máy bay chở hàng Đồng minh ở Đại Tây Dương và là một trong những vũ khí nguy hiểm nhất trong biên chế của Đức Quốc xã. . Tuy nhiên, theo WATM, máy bay ném bom nguy hiểm này ban đầu được Đức phát triển để chỉ sử dụng cho hành khách.
Fw 200 Condor ban đầu là một máy bay dân dụng được thiết kế bởi Focke-Wolf. Lufthansa sẽ thăm Nam Phi. Nó chở 26 hành khách và có thể bay từ Đức đến Hoa Kỳ trong 20 giờ mà không cần tiếp nhiên liệu. Phiên bản máy bay vận tải Fw 200A-0 Condor được sản xuất vào năm 1938, một trong số đó đã được chuyển đổi thành máy bay chở hàng cho trùm phát xít Hitler.
Khi Thế chiến II nổ ra, Luftwaffe nhận ra rằng “cô ấy phải làm điều này.” Mọi thứ có thể cắt đứt đường huyết mạch đến Hoa Kỳ và Anh trên Đại Tây Dương. Đồng thời, Hải quân Đế quốc Nhật Bản cũng bày tỏ sự quan tâm đến khả năng trinh sát tầm xa của Fw 200. Nó nhanh chóng được chuyển đổi thành máy bay ném bom trinh sát hàng hải tầm xa.
Bắt đầu từ máy bay loại L, anh đã biến chiếc máy bay dân dụng nguyên bản Fw 200 thành máy bay ném bom 7 chỗ với chiều dài 23 m, chiều rộng 32 m và chiều cao 3 m. Fw 200 được trang bị bốn động cơ BMW-Bramo 323 R-2 với tổng công suất 4.800 mã lực, tốc độ tối đa 360 km / h và tầm bay 4.400 km. Máy bay được trang bị bốn súng máy 13 mm MG 131, pháo 20 mm MG-151 và mang theo 2,1 tấn bom khác nhau. Đức cũng được trang bị radar chống hạm và thiết bị hỗ trợ bom tầm thấp để thực hiện nhiệm vụ chống tàu.
Phi hành đoàn Fw 200 có thể bay liên tục trong 14-18 giờ trong khoảng cách 3860 km. Mặc dù có những thách thức về thời tiết và điều hướng, nó vẫn gây ra mối đe dọa nguy hiểm cho các tàu chở hàng của Đại Tây Dương.
Hạm đội Fw 200 gây ra cơn ác mộng cho các chuyên gia vận tải hàng hóa Đồng minh. Ảnh: Wikipedia. Sau khi được giao cho đơn vị Kampfgruppe 40 vào tháng 8 năm 1940, Fw 200 đã đánh chìm 90.000 tấn hàng hóa chỉ trong hai tháng, đưa con số lên 363.000 tấn. Tháng 1 năm 1941. Thủ tướng Anh Winston Churchill gọi những chiếc máy bay này là “thảm họa Đại Tây Dương”. Tuy nhiên, Fw 200 có nhiều hạn chế, chẳng hạn như hạ cánh dễ dàng ở phần đuôi. Khi chiếc vali bị hỏng, ít nhất tám chiếc xe đã gặp tai nạn. Khung thân máy bay không đủ mạnh để thêm vũ khí và nhiên liệu, bởi vì Fw 200 là một máy bay cải tiến. Phi hành đoàn vẫn đang phàn nàn về áo giáp không phù hợp và hệ thống tiếp nhiên liệu dễ hỏng.
Sự nguy hiểm của phi đội Fw 200 không nằm ở thiết bị, mà là khả năng chỉ điểm. Vị trí tàu Đồng minh cho tàu ngầm Đức tấn công. Vào giữa năm 1941, Anh bắt đầu sử dụng các hàng không mẫu hạm để hộ tống các máy bay chở hàng, buộc Đức phải thay đổi chiến thuật. Fw 200 chịu trách nhiệm theo dõi và báo cáo hành trình của các máy bay chở hàng của Đồng minh, và sẽ không chủ động tấn công trừ khi nó gặp nguy hiểm.
Để hướng dẫn tàu ngầm, máy bay Fw 200 đã theo đội. Hình ảnh của tàu địch có thể được báo cáo cùng một lúc, nhưng không tiếp xúc trực tiếp với tàu ngầm. Trong trường hợp rất ít Fw 200 được sản xuất tại Đức, phương pháp này có hiệu quả đối với số lượng máy bay có sẵn.
Trong chiến tranh, chiếc máy bay này cũng chịu nhiều tổn thất. Vào ngày 20 tháng 9 năm 1941, một chiếc máy bay đã bị bắn hạ trong một cuộc tấn công vào đội tàu chở hàng được tàu sân bay HMS Audacity hộ tống. Trong hành trình tiếp theo của hàng không mẫu hạm, bốn chiếc Fw 200 khác đã bị bắn hạ.
Năm 1943, phi đội Fw 200 được chuyển đổi thành máy bay vận tải và được triển khai đến Mặt trận phía đông trong Trận Stalingrad. Sau đó, họ trở lại Đại Tây Dương để trinh sát và được thay thế bằng Ju 290.
Fw 200 đã giúp Đức phá hủy nhiều chuyến tàu chở hàng từ Hoa Kỳ đến Vương quốc Anh. Việc sản xuất Fw 200 đã dừng lại vào năm 1944 sau khi Luftwaffe nhận được 263 máy bay. Ý tưởng chế tạo máy bay trinh sát và tuần tra từ máy bay dân sự là điều kiện tiên quyết để cho ra mắt P-3 Orion và Nimrod trong Chiến tranh Lạnh.