5 mô hình máy bay quân sự bí ẩn nhất của Liên Xô và Nga
- Quân sự
- 2020-07-30
Nguyên mẫu duy nhất của máy bay ném bom K-7 khổng lồ. Ảnh: Wikipedia. Trong lịch sử hàng không quân sự của Liên Xô và Nga, nhiều máy bay bí ẩn đã xuất hiện để giành lợi thế trước các đối thủ trên thế giới. Tuy nhiên, theo RBTH, một số dự án đã bị hủy trước khi đào tạo, trong khi những dự án khác kết thúc chỉ sau một vài chuyến bay thử nghiệm.
Kalinin K-7
Máy bay ném bom khổng lồ Kalinin K -7 được phát triển vào những năm 1930 là máy bay lớn nhất với sải cánh dài 53 m ở Liên Xô và được trang bị 7 cánh quạt AM-34. Ngoài khả năng ném bom, máy bay K-7 còn có thể chở hành khách sau khi chỉnh sửa cơ thể người.
Thiết kế của K-7 được coi là lạ vào những năm 1930, với hai khung cánh phía sau. Khoang lớn dưới cánh có thể chứa súng máy và súng máy. Ghế của phiên bản hành khách của máy bay được đặt trong cánh dày 2,3 m. Thân máy bay được hàn bằng khung hợp kim thép cường độ cao.
Mỗi chiếc K-7 dài 28m, sải cánh 53m, chiều cao 12,4m và trọng lượng rỗng 24 tấn. Phiên bản hành khách dân sự có thể chứa 120 người và 7 tấn hàng hóa. Phiên bản vận tải quân sự cũng có thể chứa 112 binh sĩ được vũ trang mạnh. Đồng thời, biến thể của máy bay ném bom K-7 được trang bị 8 khẩu pháo tự động 20 mm, 8 súng máy 7.62mm và bom lên tới 9,6 tấn.
Việc chế tạo nguyên mẫu K-7 đầu tiên bắt đầu ở Kharkov vào năm 1931 và kéo dài hai năm. Cuộc thử nghiệm đầu tiên được thực hiện vào ngày 11 tháng 8 năm 1933, cho thấy sự mất ổn định và rung lắc nghiêm trọng của K-7 là do hiệu ứng cộng hưởng giữa động cơ và khung gầm. Các kỹ sư đã giải quyết vấn đề này bằng cách rút ngắn và ổn định đuôi máy bay, nhưng không giải quyết được hoàn toàn những rung động này.
Sau 7 chuyến bay thử nghiệm an toàn, nguyên mẫu K-7 đập vào tai. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1933, một tai nạn đã xảy ra do đuôi máy bay bị gãy. Vụ tai nạn khiến 14 người chết trên máy bay và 1 người chết trên mặt đất. Nguyên nhân vụ tai nạn chưa được tiết lộ, nhưng nhiều người nghi ngờ rằng chiếc máy bay đã bị hư hỏng trước đó. Hai nguyên mẫu khác đã được đặt hàng, nhưng dự án K-7 đã kết thúc vào năm 1935 trước khi hoàn thành.
Zveno
Dự án Zveno (vành đai) được phát triển bởi Liên Xô. Từ đầu những năm 1930 đến khi Chiến tranh Yêu nước bùng nổ vào năm 1941. Ý tưởng chính là sử dụng máy bay ném bom hạng nặng TB-3 làm máy bay mẹ, mang theo tới 5-16 chiếc Polikarpov nhỏ để tăng bán kính hiệu quả chiến đấu và tiết kiệm nhiên liệu.
Trước khi các máy bay ném bom đưa tàu ngầm vào khu vực, chúng có thể được kết nối từ mặt đất đến TB-3 hoặc kết nối trên không. Chiến trường vượt xa bán kính chiến đấu bình thường. Máy bay chiến đấu I-16 sẽ rời khỏi máy bay chính, tấn công kẻ thù và sau đó hạ cánh xuống sân bay Liên Xô.
Phiên bản Zveno-PBS được trang bị hai máy bay chiến đấu I-16. Ảnh: Wikipedia.
Mỗi chiếc I-16 có thể mang tới hai quả bom nặng 250 kg khi được treo dưới cánh của máy bay TB-3. Thông thường, họ không thể cất cánh với vũ khí hiệu quả như vậy.

Mặc dù có nhiều trận chiến thành công vào đầu Thế chiến II, kế hoạch Zweeno không được mở rộng. Máy bay ném bom TB-3 nhanh chóng được đưa ra khỏi dây chuyền lắp ráp do tuổi đời của nó, trong khi I-16 nhanh chóng được thay thế bằng các máy bay chiến đấu hiện đại hơn.
Sukhoi T-4– ZH Năm 1963, chính phủ Liên Xô đã yêu cầu thiết kế máy bay ném bom chiến lược để đối phó với XB-70 Valkyrie do Hoa Kỳ phát triển. Ba cơ quan thiết kế (OKB), Sukhoi, Yakovlev và Tupolev, đã đề xuất các dự án của họ và chọn phiên bản T-4 của Sukhoi để sản xuất thử nghiệm.
Tốc độ hành trình của Sukhoi T-4 có thể đạt tới 3200 km / h, gấp 3 lần tốc độ âm thanh (Mach 3). Điều này đã giúp thiết kế của Sukhoi đánh bại các đối thủ Yakovlev và Tupolev. Sau thời gian xem xét vào tháng 6 năm 1964, việc sản xuất nguyên mẫu Sukhoi T-4 đầu tiên đã hoàn thành.
Sự phát triển của T-4 đòi hỏi rất nhiều công việc nghiên cứu để tạo ra một công nghệ đáp ứng các ứng dụng cần thiết. Chúng bao gồm quy trình sản xuất vật liệu hàn hợp kim titan và công nghệ để đảm bảo máy bay có thể chịu được 3 mã lực. Theo Sukhoi, gần 600 phát minh đã được công bố và sử dụng trong quá trình phát triển. T-4 .
Dự án máy bay ném bom Sukhoi T-4
Sukhoi T-4 được làm bằng titan và thép không gỉ. Đây là máy bay đầu tiên của Liên Xô được trang bị hệ thống điều khiển điện tử bằng dây bay với 4 kênh dự phòng và hệ thống điều khiển cơ truyền thống để đảm bảo an toàn. Sau đó, công nghệ fly-by-wire của T-4 đã được áp dụng cho dây chuyền sản xuất máy bay chiến đấu Su-27 và các phiên bản nâng cấp của Su-30 và Su-35.
Số lượng hao mòn của mẫu T-4 đầu tiên là 101 chưng cấtCánh được điều khiển bởi phi công Vladimir Ilyushin và phi công Nikolai Alfyolov vào ngày 22/8/1972. Chuyến bay thử kéo dài đến ngày 19 tháng 1 năm 1974. Chỉ có 10 chuyến bay được thực hiện và tổng thời gian bay là 10 giờ 20 phút. Vào giữa năm 1974, Bộ Công nghiệp Hàng không Liên Xô đã ra lệnh đình chỉ phát triển Sukhoi T-4. Dự án đã chính thức bị hủy bỏ vào ngày 19 tháng 12 năm 1975.
Một trong những lý do khiến dự án T-4 bị hủy bỏ là Hoa Kỳ đã từ bỏ máy bay XB-70 Valkyrie, đối thủ cạnh tranh chính của máy bay. Ngoài ra, số 250 T-4 theo yêu cầu của Không quân Liên Xô được coi là không thể. Kinh phí từ máy bay ném bom này có thể được sử dụng để sản xuất nhiều máy bay thực tế hơn. Mi-30 – Máy bay trực thăng lai nổi tiếng nhất thế giới là Boeing V-22 Osprey được thiết kế vào những năm 1980. Tuy nhiên, ít người biết rằng Liên Xô đã cố gắng phát triển loại vũ khí này từ năm 1972. Mi-30 có khả năng cất cánh thẳng đứng và bay như một chiếc máy bay cánh phẳng, có thể chở hai tấn hàng hóa, một dự án tiềm năng để thay thế Mi-8 và các máy bay trực thăng đa chức năng khác.
Nguyên mẫu của trực thăng Mi-30. Ảnh: Wikipedia .
Nguyên mẫu đầu tiên của dự án Mi-30 được ra mắt vào năm 1986, nhưng những bất ổn chính trị và kinh tế ở Liên Xô đã khiến dự án bị hủy bỏ. Tổng cộng có 4 nguyên mẫu Mi-30 đã được sản xuất, nhưng 3 trong số đó đã vượt khỏi tầm kiểm soát trong quá trình vận chuyển. Nguyên nhân của vụ tai nạn không rõ ràng.
Su-47
Năm 1983, các nhà lãnh đạo của Liên Xô đã quyết định bắt đầu một dự án về máy bay chiến đấu cánh tả và giao chương trình này cho OKB Sukhoi. Tuy nhiên, sự tan rã của Liên Xô đã cắt giảm hoàn toàn ngân sách của dự án, buộc OKB Sukhoi phải sử dụng ngân sách của chính mình để tiếp tục phát triển các mô hình máy bay chiến đấu.
Vào ngày 25 tháng 9 năm 1997, tên thử nghiệm của phiên bản này là S-37, và chuyến bay đầu tiên là có thể. Năm 2002, Không quân Nga đã quyết định đổi tên máy bay thành Su-47 Berkut (Đại bàng vàng).
So với cánh quét ngược truyền thống, thiết kế cánh đảo ngược có ưu điểm là nâng và khả năng cơ động tốc độ thấp. , Và chiều dài cất cánh ngắn hơn. Để khắc phục những thiếu sót chung của thiết kế cánh (nghĩa là sự phân bố lực không đều trên cánh), Su-47 sử dụng vật liệu composite đã được xử lý cẩn thận để chịu được mô-men xoắn, trong khi vẫn duy trì hiệu suất khí động học tuyệt vời cho chắn bùn. — Hiệu suất máy bay chiến đấu Su-47
Tuy nhiên, vật liệu composite vẫn không thể đảm bảo độ bền. Mặc dù có tới 90% linh kiện được làm bằng vật liệu composite, nhưng cánh của Su-47 vẫn có thể làm hỏng thân máy bay nếu chúng bay ở tốc độ quá cao. Ngoài ra, sức mạnh của động cơ D-30F11 là không đủ để Su-47 có khả năng bay siêu hạng.
Trong bối cảnh nền kinh tế Nga, công nghệ hạn chế và giá cao đã khiến Su-47 gặp nhiều khó khăn. Không sản xuất hàng loạt. Tuy nhiên, OKB Sukhoi vẫn sử dụng nguyên mẫu duy nhất để thử nghiệm các công nghệ hiện đại, và sau đó triển khai các công nghệ này cùng với các máy bay chiến đấu Su-57 trong dự án tàng hình PAK-FA. .