Tên lửa Patriot của Mỹ đã vô tình bốc cháy trong Chiến tranh Iraq năm 2003
- Quân sự
- 2020-08-08
Tên lửa Patriot PAC-3 đã được thử nghiệm tại Hoa Kỳ vào năm 2017. Ảnh: Raytheon.
Để bảo vệ lực lượng mặt đất tham gia các hoạt động quân sự ở Iraq, Hoa Kỳ đã triển khai 62 tổ hợp phòng không Patriot PAC-3 ở các nước Trung Đông. Tuy nhiên, theo “Bored War”, các hệ thống phòng không này tỏ ra không đáng tin cậy và đôi khi còn gây ra mối đe dọa chết người cho chính máy bay liên minh.

Mỗi nhóm yêu nước gồm có radar. Trinh sát và bắn súng, một tháp điều khiển hỏa lực và một số bệ phóng. Phiên bản PAC-3 có thể đạt tầm bắn tối đa 70 km và có thể bắn hạ tên lửa đạn đạo tầm ngắn và nhiều loại máy bay.
Để xác định mục tiêu, Patriot thu thập các thông số như tốc độ cao, khu vực phản xạ radar và tín hiệu nhận dạng kẻ thù (IFF). Sau khi sử dụng thuật toán phân tích, máy tính sẽ thông báo cho phi hành đoàn xem mục tiêu là tên lửa hay tên lửa đạn đạo. Nếu bộ đồ Patriot nhận ra mục tiêu là máy bay mục tiêu, thì nó cũng có chế độ bắn tự động.
Tuy nhiên, thuật toán của Patriot không phải lúc nào cũng chính xác. Vào ngày 23 tháng 3 năm 2003, một chiếc máy bay Tornado GR4 của Anh đã bị một tên lửa Patriot của Mỹ bắn hạ gần biên giới Iraq-Kuwait khi trở về căn cứ, giết chết hai phi công. Cuộc điều tra sau đó kết luận rằng thiết bị IFF của cơn lốc xoáy không hoạt động chính xác, điều này khiến cho những người yêu nước xác định đó là Không quân Iraq.
Tổ hợp Patriot PAC-3 đã bắn hạ máy bay chiến đấu không người lái QF. 4
Đạn pháo Patriot đã khóa mục tiêu của chúng trên máy bay chung nhiều lần, buộc các phi công phải liên lạc với máy bay cảnh báo sớm và yêu cầu không được phóng tên lửa phòng không Mỹ.
Tuy nhiên, một ngày sau khi cơn lốc xoáy GR4 gặp sự cố, hệ thống Patriot một lần nữa nhắm vào máy bay chiến đấu F-16 của Mỹ. Thông qua hệ thống cảnh báo sớm của máy bay chiến đấu, phi công F-16 đã phóng tên lửa chống radar AGM-88 HARM. Viên đạn HARM đã lao tới nguồn tín hiệu và phá hủy radar “Yêu nước”, nhưng không gây thương vong cho phi hành đoàn.
Không quân Hoa Kỳ tuyên bố rằng đây chỉ là một tai nạn vì phi công không biết radar “Yêu nước” là gì. chờ đợi. Tuy nhiên, nhiều phi công ủng hộ quyết định phóng tên lửa HARM của phi công F-16. Một phi công người Mỹ nói: “Họ bị nhốt chúng tôi mỗi ngày. May mắn thay, không ai bị thương trong trường hợp này, nhưng tôi nghĩ ít nhất radar này không còn có thể khiến chúng tôi sợ hãi nữa.” — Sau sự cố , Nhiều hệ thống Patriot tiếp tục hoạt động, bị mê hoặc bởi các phi công của Liên minh. Vào ngày 2 tháng 4, tên lửa “Patriot” đã bắn vào một máy bay chiến đấu F / A-18C “Hornet” của Hải quân Hoa Kỳ do phi công Nathan D. White lái trong khi anh ta đang bay trên không phận Iraq. White đã phát hiện và thao túng tên lửa đang đến gần, nhưng không thể tiến hành kịp thời. Trong trường hợp này, những người yêu nước cũng xác định máy bay chiến đấu F / A-18C là một tên lửa của Iraq.
Bệ phóng tên lửa Patriot đã được triển khai ở Iraq. Sau một loạt sự cố, chỉ huy người Mỹ đã phải ra lệnh cho phi hành đoàn Patriot không kích hoạt chế độ bắn tự động, và phi công phải sử dụng phương pháp IFF đáng tin cậy hơn. Quân đội Hoa Kỳ cũng hứa sẽ sửa chữa những sai lầm của Patriot PAC-3.
Sau chiến tranh, Lầu năm góc điều tra vụ nổ súng và đưa ra kết luận đáng lo ngại. Không quân Iraq không tham gia trận chiến và pháo binh Iraq chỉ bắn một vài tên lửa đạn đạo vào liên minh. Việc có tới ba phi công thiệt mạng vì bắn nhầm khiến nhiều quan chức đặt câu hỏi về khả năng chiến đấu của Patriot PAC-3.